Lúa mì

Nga, nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới sẽ tăng gần gấp ba lần thuế xuất khẩu lúa mì kể từ ngày 17/9, Bộ Nông nghiệp Nga cho biết hôm thứ Sáu.

Số liệu kiểm tra xuất khẩu hàng tuần của Mỹ cũng hỗ trợ thêm cho giá lúa mì, với 755.073 tấn được kiểm định trong tuần qua, vượt xa dự báo của thị trường, theo USDA.

Báo cáo hàng tuần của USDA công bố hôm thứ Hai cho thấy, thu hoạch lúa mì vụ xuân của Mỹ đã hoàn thành 94%, trong khi gieo trồng lúa mì vụ đông đạt 11%, tăng từ mức 5% của tuần trước.

Các nhà máy xay bột ở châu Á đang tăng nhập khẩu lúa mì Mỹ nhờ giá cạnh tranh và sự chậm trễ giao hàng từ khu vực Biển Đen. Indonesia đã mua khoảng 500.000 tấn, Bangladesh 250.000 tấn và Sri Lanka 100.000 tấn, chủ yếu là lúa mì trắng mềm và lúa mì đỏ cứng vụ đông, với giá lần lượt 270 USD/tấn và 275 USD/tấn.

Bên cạnh các khách hàng truyền thống như Thái Lan, Philippines và Đài Loan, nhu cầu bổ sung từ Đông Nam Á được kỳ vọng tiếp tục tăng sau các cam kết thương mại mới. Indonesia đã ký biên bản ghi nhớ mua 1 triệu tấn lúa mì Mỹ mỗi năm giai đoạn 2026–2030, còn Bangladesh cam kết nhập 700.000 tấn/năm từ 2025.

USDA vừa nâng dự báo xuất khẩu lúa mì Mỹ niên vụ 2025/26 lên 24,5 triệu tấn, cao hơn 1 triệu tấn so với tháng trước.

Đậu tương

Điều kiện cây trồng ngô và đậu tương của Mỹ suy giảm so với tuần trước, trong khi hoạt động thu hoạch sớm đang được đẩy nhanh.

Quan chức Mỹ và Trung Quốc đã gặp nhau tại Tây Ban Nha và đạt được một thỏa thuận tiềm năng về TikTok, nhưng không có cập nhật nào liên quan đến thương mại nông sản. Trung Quốc vẫn tránh mua nguồn cung từ Mỹ cho niên vụ 2025/26.

Bộ trưởng Nông nghiệp Mỹ, bà Brooke Rollins, cho biết hôm thứ Hai USDA đang phối hợp với Quốc hội để xem xét khả năng cần hỗ trợ kinh tế cho nông dân vào mùa thu này.

Theo giới thương mại, các quỹ hàng hóa đã bán ròng hợp đồng ngô và đậu tương trên CBOT trong phiên thứ Hai.

Sản lượng nghiền đậu tương NOPA tháng 8/2025 đạt gần 190 triệu giạ, cao hơn nhiều so với dự báo trung bình 182,9 triệu giạ và vượt ngoài phạm vi ước tính. Mặc dù giảm 3% so với 195,7 triệu giạ của tháng 7, con số này vẫn cao hơn tới 20% so với cùng kỳ năm 2024. Dù sản lượng nghiền vượt kỳ vọng, tồn kho dầu đậu tương lại giảm 9,7% so với tháng 7, xuống còn 1,245 tỷ lbs, thấp hơn mức dự báo 1,298 tỷ lbs. Theo ước tính thống kê, sản lượng nghiền tháng 8 đạt khoảng 198 triệu giạ, đưa tổng nghiền của niên vụ 2024/25 lên 2,445 tỷ giạ, cao hơn 15 triệu giạ so với ước tính hiện tại của USDA.

Kiểm tra xuất khẩu đậu tương tuần trước của Hoa Kỳ đạt 29,5 triệu giạ, cao hơn dự báo nhưng vẫn thấp hơn mức 32 triệu giạ/tuần cần thiết để đạt mục tiêu điều chỉnh của USDA. Tính từ đầu niên vụ, kiểm tra đạt 39 triệu giạ, tăng 43% so với cùng kỳ năm trước, trong khi USDA dự báo giảm 10%. Các khách hàng lớn gồm Ý, Bangladesh và Mexico, mỗi nước mua khoảng 3–5 triệu giạ.

Tỷ lệ tồn kho/tiêu thụ của các nước xuất khẩu lớn trong niên vụ 2024/25 giảm xuống 19,9% từ mức 20,2%; trong khi đó, tỷ lệ vụ mùa mới giữ ổn định ở mức 19,4%. Giá nông trại trung bình USDA ước tính 10,00 USD/giạ cho niên vụ 2025/26 được đánh giá là khá thấp, bởi tỷ lệ tồn kho/tiêu thụ của Mỹ hiện dưới 7%. Tại Brazil, việc gieo trồng đậu tương mới chỉ vừa bắt đầu.

Ngô

Kiểm tra xuất khẩu ngô tuần trước của Hoa Kỳ đạt 59,5 triệu giạ, nằm ở mức cao trong phạm vi dự báo và nhỉnh hơn mức 57 triệu giạ/tuần cần thiết để đạt mục tiêu điều chỉnh của USDA. Tính từ đầu niên vụ, tổng kiểm tra đạt 85 triệu giạ, tăng 106% so với cùng kỳ năm trước, trong khi USDA chỉ dự báo tăng 5%. Các khách hàng chính gồm Mexico (17 triệu giạ) và Nhật Bản (15 triệu giạ). Ngoài ra, USDA thông báo bán 149.000 tấn (tương đương 6 triệu giạ) ngô cho một khách hàng chưa xác định.

AgRural ước tính diện tích gieo trồng ngô vụ 1 của Brazil đạt 17%. Safras & Mercado dự báo sản lượng vụ 1 đạt 25,48 triệu tấn, tăng 3% so với năm ngoái.

Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Kỳ hạn (CFTC) cho biết các quỹ đầu cơ đã bán ròng 8.442 hợp đồng, đưa vị thế bán khống trở lại mức 100.000 hợp đồng tính đến ngày 9/9.

Báo cáo của USDA hôm thứ Sáu cho thấy tỷ lệ tồn kho/tiêu thụ của các nước xuất khẩu lớn trong niên vụ 2024/25 tăng lên 7,7% so với 7,4% hồi tháng 8. Tuy nhiên, đối với vụ mùa mới, tỷ lệ này lại giảm nhẹ xuống 9,7%, từ mức 9,8% của tháng trước.