
Lúa mì
Tại Mỹ, tồn kho cuối vụ 2025/26 được điều chỉnh tăng thêm 57 triệu giạ, lên 901 triệu giạ, cao hơn ước tính của thị trường khoảng 35 triệu giạ. Tồn kho tăng đồng loạt ở cả ba nhóm lúa mì chủ lực: lúa mì cứng đỏ vụ đông (HRW) tăng 35 triệu giạ, lúa mì cứng đỏ vụ xuân (HRS) và lúa mì mềm đỏ vụ đông (SRW) mỗi loại tăng 9 triệu giạ, trong khi lúa mì trắng tăng 6 triệu giạ. Nguyên nhân chính đến từ việc sản lượng được điều chỉnh cao hơn trong báo cáo ngày 30/9, trong khi các chỉ tiêu nhu cầu hầu như không thay đổi.
Trên bình diện toàn cầu, tồn kho lúa mì thế giới tăng mạnh 7,3 triệu tấn, lên 271,4 triệu tấn, vượt xa kỳ vọng của thị trường. Sản lượng toàn cầu cũng được nâng thêm 12,7 triệu tấn, đạt khoảng 829 triệu tấn. Các điều chỉnh tăng sản lượng tập trung tại nhiều quốc gia xuất khẩu lớn như Argentina, Australia, Canada, Liên minh châu Âu, Nga, Kazakhstan và cả Mỹ, cho thấy bức tranh nguồn cung lúa mì thế giới đang dư dả hơn so với các dự báo trước đó.
Đậu tương
USDA công bố đồng thời bản tổng hợp sáu tuần số liệu bán hàng nông sản hằng ngày của Mỹ, giúp thị trường có thêm cái nhìn rõ hơn về hoạt động mua đậu tương Mỹ gần đây của Trung Quốc.
Dữ liệu cho thấy các nhà xuất khẩu đã bán 100.000 tấn đậu tương cho Trung Quốc giao niên vụ 2025/26 vào ngày 30/10, và thêm 232.000 tấn đậu tương cho Trung Quốc cùng niên vụ vào ngày 3/11.
Reuters trước đó đưa tin Trung Quốc đã bắt đầu mua một lượng nhỏ hàng nông sản Mỹ, song Bắc Kinh vẫn chưa xác nhận tuyên bố từ Nhà Trắng rằng Trung Quốc sẽ mua 12 triệu tấn đậu tương Mỹ trước cuối năm.
Tuy nhiên, Tổng thống Donald Trump nói rằng Trung Quốc sẽ mua đậu tương và các nông sản khác của Mỹ, và Washington cùng Bắc Kinh đã có các cuộc trao đổi về vấn đề này vào ngày thứ Sáu.
Giá đậu tương Mỹ nhiều khả năng sẽ phải điều chỉnh thấp hơn tương đối so với các chào bán FOB từ Brazil nếu muốn cải thiện vị thế trên thị trường, đặc biệt tại Trung Quốc nơi nông dân Mỹ vẫn chịu bất lợi do chênh lệch thuế suất khoảng 10%. Trong thời gian chính phủ Mỹ đóng cửa, lượng “bán nhanh” sang Trung Quốc chỉ đạt khoảng 332.000 tấn, cộng với 616.000 tấn bán cho khách hàng chưa rõ danh tính vẫn chưa bằng 1/12 so với con số 12 triệu tấn mà chính quyền Trump khẳng định Trung Quốc sẽ mua trước cuối năm, cho thấy khoảng cách khá lớn giữa tuyên bố và thực tế mua hàng.
Về cung cầu Mỹ, USDA cắt giảm sản lượng đậu tương 48 triệu giạ, xuống 4,253 tỷ giạ, thấp hơn kỳ vọng thị trường khoảng 13 triệu giạ. Năng suất bình quân vẫn ở mức kỷ lục 53 giạ/mẫu, nhưng giảm nhẹ so với 53,5 giạ/mẫu trong báo cáo tháng 9/2025. Với niên vụ cũ 2024/25, dự báo ép dầu được nâng thêm 15 triệu giạ, kéo tồn kho cuối kỳ xuống 316 triệu giạ. Ngược lại, ở niên vụ mới 2025/26, tổng nhu cầu bị điều chỉnh giảm 51 triệu giạ do triển vọng xuất khẩu yếu đi, dù tồn kho cuối kỳ ước tính chỉ còn 290 triệu giạ, giảm 10 triệu giạ và thấp hơn đôi chút so với dự đoán ban đầu.
Trên bình diện toàn cầu, sản lượng đậu tương Brazil niên vụ 2024/25 được nâng thêm 2,5 triệu tấn, lên 171,5 triệu tấn, trong khi các giả định về vụ mới không thay đổi. Xuất khẩu đậu tương Argentina niên vụ 2025/26 được tăng thêm 2,25 triệu tấn, lên 8,25 triệu tấn. Tồn kho đậu tương thế giới niên vụ 2025/26 bị hạ 2 triệu tấn, xuống còn 122 triệu tấn, trái với kỳ vọng trước đó rằng tồn kho gần như đi ngang, qua đó cho thấy bức tranh cung cầu toàn cầu đang có phần thắt chặt hơn nhẹ so với dự kiến.
Ngô
Trong thời gian chính phủ Mỹ đóng cửa, tổng khối lượng ngô bán nhanh đạt hơn 4,9 triệu tấn, trong đó gần 3,5 triệu tấn được ghi nhận bán sang Mexico, còn doanh số cho khách hàng chưa rõ danh tính vào khoảng 976 nghìn tấn.
Tồn kho ngô Mỹ hiện duy trì trên 2,1 tỷ giạ, mức cao nhất trong vòng 7 năm. Dù nhu cầu xuất khẩu có thể vẫn vững, nếu không xuất hiện vấn đề thời tiết lớn tại Nam Mỹ, thị trường có cơ sở để kỳ vọng hợp đồng tháng 12/2025 sẽ có nhịp điều chỉnh, lùi về vùng đáy tháng 10/2025 quanh 4,10 USD/giạ.
Về cân đối cung cầu tại Mỹ, sản lượng ngô được điều chỉnh giảm 62 triệu giạ, xuống còn 16,752 tỷ giạ, nhưng con số này vẫn cao hơn mức dự báo trước đó khoảng 195 triệu giạ. Năng suất bình quân được giữ ở vùng kỷ lục 186 giạ/mẫu, dù đã giảm nhẹ so với mức 186,7 giạ/mẫu trong báo cáo tháng 9/2025. Ở niên vụ cũ 2024/25, USDA cắt giảm khá mạnh mức sử dụng ngô cho thức ăn chăn nuôi, qua đó đẩy tồn kho cuối kỳ lên 1,532 tỷ giạ (số liệu tính đến ngày 30/9).
Đối với niên vụ mới 2025/26, nhu cầu tổng thể được điều chỉnh tăng thêm 100 triệu giạ, chủ yếu nhờ kỳ vọng xuất khẩu cao hơn. Tuy nhiên, tồn kho cuối kỳ ngô Mỹ 2025/26 vẫn được nâng lên 2,154 tỷ giạ, tăng 44 triệu giạ so với ước tính trước và nhỉnh hơn đôi chút so với kỳ vọng của thị trường.
Trên bình diện quốc tế, sản lượng ngô Brazil niên vụ 2024/25 được nâng thêm 5 triệu tấn, lên mức 136 triệu tấn, phản ánh triển vọng nguồn cung khá dồi dào. Tồn kho ngô thế giới niên vụ 2025/26 gần như không đổi quanh 281 triệu tấn, chỉ thấp hơn kỳ vọng thị trường một chút, qua đó cho thấy bức tranh cung cầu toàn cầu vẫn tương đối cân bằng, hơi nghiêng nhẹ về phía dư cung.