Lúa mì

Tổng sản lượng lúa mì của Mỹ được ước tính đạt 1,929 tỷ giạ, tăng 8 triệu giạ so với tháng trước và cao hơn 15 triệu giạ so với dự báo thị trường. Tuy nhiên, sản lượng lúa mì vụ đông giảm mạnh chỉ đạt 1,345 tỷ giạ (giảm 37 triệu giạ), thấp hơn dự báo 17 triệu. Trong đó, lúa mì cứng đỏ vụ đông (HRW) giảm 28 triệu giạ, còn 755 triệu lúa mì mềm đỏ vụ đông (SRW) giảm 8 triệu, còn 337 triệu.

Ngược lại, lúa mì vụ xuân được ước tính đạt 504 triệu giạ thấp hơn 38 triệu giạ so với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn cao hơn kỳ vọng 30 triệu.

Tồn kho cuối kỳ lúa mì Mỹ niên vụ 2025/26 được dự báo ở mức 890 triệu giạ, giảm nhẹ so với dự báo, do xuất khẩu được điều chỉnh tăng 25 triệu giạ lên 850 triệu nếu đạt được, đây sẽ là mức cao nhất trong 5 năm.

Về toàn cầu, tồn kho lúa mì cho niên vụ 2025/26 được điều chỉnh giảm 1,2 triệu tấn, còn 261,5 triệu tấn, thấp hơn kỳ vọng 1,5 triệu tấn. Sản lượng bị cắt giảm 1 triệu tấn tại cả Canada và Ukraine, trong khi Liên minh Châu Âu được điều chỉnh tăng 0,7 triệu tấn và Nga tăng 0,5 triệu tấn.

Theo báo cáo của cơ quan nông nghiệp Pháp FranceAgriMer, vụ thu hoạch lúa mì và lúa mạch tại Pháp đang diễn ra nhanh hơn bình thường. 

Bộ Nông nghiệp Nga cho biết thuế xuất khẩu lúa mì của nước này sẽ tiếp tục được duy trì ở mức 0 trong tuần thứ hai liên tiếp,động thái này có thể thúc đẩy xuất khẩu lúa mì Nga.

Đậu tương

Trong báo cáo cung cầu tháng 7 từ USDA tồn kho cuối kỳ vụ 2024/25 của đậu tương Mỹ không đổi ở mức 350 triệu giạ, giảm nhẹ so với kỳ vọng. Sản lượng 2025 được điều chỉnh giảm 5 triệu giạ, còn 4,335 tỷ giạ do diện tích thu hoạch giảm. Về phía nhu cầu, có sự dịch chuyển 15 triệu giạ từ "phụ trội" sang xuất khẩu.

Năng suất 2025 được giữ nguyên ở mức kỷ lục 52,5 giạ/mẫu. Tổng mức sử dụng cho vụ mới giảm 20 triệu giạ: nhu cầu ép tăng 50 triệu giạ, nhưng xuất khẩu bị cắt giảm 70 triệu. Tồn kho cuối kỳ vụ 2025/26 tăng 15 triệu giạ, lên 310 triệu nhỉnh hơn so với kỳ vọng thị trường.

Dầu đậu tương, nhu cầu sản xuất nhiên liệu sinh học trong niên vụ 2024/25 bị cắt giảm 650 triệu pound, nhưng được điều chỉnh tăng mạnh thêm 1,6 tỷ pound cho vụ 2025/26. Xuất khẩu dầu đậu cho niên vụ 2025/26 bị giảm mạnh 1 tỷ pound, còn 700 triệu.

Sản lượng khô đậu tăng theo đà ép, với xuất khẩu niên vụ 2025/26 tăng 4% lên 18.700 tấn, và tiêu thụ nội địa tăng 450.000 tấn lên 41.775.000 tấn. Giá trung bình được điều chỉnh giảm từ 310 USD/tấn xuống còn 290 USD để kích thích nhu cầu tăng thêm.

Nhập khẩu đậu tương của Trung Quốc trong niên vụ 2024/25 tiếp tục bị hạ thêm 1,5 triệu tấn, còn 106,5 triệu tấn.

Ngô

Sau báo cáo cung cầu tháng 7 từ USDA, theo đánh giá của các nhà phân tích, thị trường hiện đang phản ánh mức năng suất thực tế có thể cao hơn 3–4 giạ/mẫu so với ước tính hiện tại của USDA là 181 giạ/mẫu. Ngoài ra, khả năng Brazil gia tăng sản lượng cũng có thể gây áp lực lên xuất khẩu ngô của Mỹ trong niên vụ 2025/26 ở các báo cáo tới. 

Tồn kho ngô cuối kỳ niên vụ 2024/25 của Mỹ giảm 25 triệu giạ, còn 1,340 tỷ giạ, do xuất khẩu được điều chỉnh tăng 100 triệu giạ, trong khi nhu cầu sử dụng cho chăn nuôi giảm 75 triệu giạ.

Sản lượng niên vụ 2025 được điều chỉnh giảm 115 triệu giạ xuống còn 15,705 tỷ giạ, do diện tích gieo trồng giảm phù hợp với kỳ vọng thị trường. Năng suất 2025 được giữ nguyên ở mức kỷ lục 181 giạ/acre.

Mức tiêu thụ trong nước cho vụ mới bị cắt giảm 50 triệu giạ do nhu cầu chăn nuôi giảm xuất khẩu vẫn giữ nguyên ở mức 2,675 tỷ giạ nhưng đây là con số cần được chứng minh bằng thực tế thị trường.

Tồn kho cuối kỳ vụ 2025/26 được hạ 90 triệu giạ, còn 1,660 tỷ giạ thấp hơn dự báo thị trường khoảng 60 triệu giạ.

Về Brazil, USDA nâng dự báo sản lượng niên vụ 2024/25 thêm 2 triệu tấn lên 132 triệu tấn mức thấp trong khoảng kỳ vọng và thấp hơn đáng kể so với các ước tính tư nhân (lên tới 150 triệu tấn).

Tồn kho ngô toàn cầu cho niên vụ 2025/26 được dự báo ở mức 272 triệu tấn, giảm 3,2 triệu tấn so với tháng trước và thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng thị trường.