Lúa mì

Báo cáo cung cầu tháng 8 cho thấy tổng sản lượng lúa mì Mỹ giảm 2 triệu giạ xuống còn 1,927 tỷ giạ, cao hơn một chút so với dự báo. Năng suất bình quân đạt 52,7 giạ/mẫu, bằng mức kỷ lục năm 2016. Sản lượng lúa mì vụ đông tăng 10 triệu giạ, lên 1,355 tỷ giạ, cao hơn khoảng 10 triệu giạ so với dự báo. Trong đó, lúa mì cứng đỏ vụ đông tăng 14 triệu giạ lên 769 triệu giạ, lúa mì mềm đỏ vụ đông tăng 2 triệu giạ lên 339 triệu giạ, trong khi lúa mì trắng giảm 7 triệu giạ.

Sản lượng lúa mì vụ xuân giảm 20 triệu giạ xuống 484 triệu giạ, trong khi lúa mì durum tăng 7 triệu giạ lên 87 triệu giạ. Nhu cầu tăng 20 triệu giạ, với xuất khẩu tăng 25 triệu giạ và tiêu thụ cho thực phẩm giảm 5 triệu giạ. Lượng xuất khẩu tăng hoàn toàn đến từ hợp đồng tương lai HRW, bù đắp vượt mức sản lượng tăng, giúp tồn kho giảm 15 triệu giạ xuống còn 416 triệu giạ. Tồn kho cuối vụ tất cả các loại lúa mì giảm 21 triệu giạ xuống 869 triệu giạ, thấp hơn gần 15 triệu giạ so với dự báo nhưng vẫn ở mức cao nhất trong 6 năm.

Giá bán trung bình tại nông trại Mỹ niên vụ 2025/26 giảm 0,10 USD xuống còn 5,30 USD/giạ. Tồn kho lúa mì toàn cầu giảm 1,5 triệu tấn xuống còn 260 triệu tấn, ở mức thấp nhất trong phạm vi dự báo. Sản lượng lúa mì Trung Quốc giảm 2 triệu tấn xuống 140 triệu tấn, nhưng được bù đắp bằng việc giảm 2 triệu tấn tiêu thụ nội địa cho thức ăn chăn nuôi.

Đậu tương

USDA dự báo năng suất đậu tương kỷ lục 53,6 giạ/mẫu, so với mức 52,5 giạ/mẫu trong ước tính tháng 7, nhưng vẫn hạ dự báo sản lượng xuống 4,292 tỷ giạ từ mức 4,335 tỷ giạ trong tháng 7.

Cũng trong ngày thứ Ba, Trung Quốc thông báo sẽ áp thuế chống bán phá giá sơ bộ ở mức 75,8% đối với nhập khẩu cải dầu từ Canada bắt đầu từ thứ Năm, qua đó đóng cửa thị trường với nguồn cung hạt có dầu này từ quốc gia Bắc Mỹ.

Theo giới giao dịch, trong ngày thứ Ba, các quỹ hàng hóa là bên bán ròng hợp đồng tương lai ngô và lúa mì trên CBOT, đồng thời là bên mua ròng đối với đậu tương, khô đậu và dầu đậu.

Báo cáo cung cầu tháng 8 cho thấy, tồn kho lúa mì Hoa Kỳ cuối vụ 2024/25 giảm 20 triệu giạ xuống còn 330 triệu giạ, giảm nhẹ so với dự báo, do xuất khẩu và lượng ép dầu cùng tăng 10 triệu giạ. Để hấp thụ nguồn cung tăng thêm từ sản lượng ép cao hơn, tiêu thụ dầu đậu nội địa tăng 150 triệu pound, trong khi xuất khẩu tăng 50 triệu pound, giúp tồn kho giữ ổn định ở mức hơn 1,5 tỷ pound. Xuất khẩu khô đậu tăng 1%.

Diện tích thu hoạch đậu tương năm 2025 giảm 2,4 triệu mẫu so với tháng 7, xuống còn 80,1 triệu mẫu. Năng suất bình quân tăng 1,1 giạ/mẫu, đạt kỷ lục 53,6 giạ/mẫu. Sản lượng giảm 43 triệu giạ xuống còn 4,292 tỷ giạ, thấp hơn khoảng 75 triệu giạ so với dự báo. Xuất khẩu niên vụ mới 2025/26 bị cắt giảm 40 triệu giạ. Tồn kho cuối kỳ của Mỹ dự kiến giảm xuống 290 triệu giạ, thấp hơn một chút so với phạm vi ước tính, trong khi tỷ lệ tồn kho/sử dụng dự kiến giảm xuống 6,7%  mức thấp nhất trong 3 năm cho cả hai chỉ tiêu này. Giá bán trung bình tại nông trại Mỹ cho niên vụ 2025/26 giữ nguyên ở mức 10,10 USD/giạ.

Tồn kho toàn cầu giảm 1 triệu tấn, xuống còn 125 triệu tấn, ở mức thấp nhất trong phạm vi dự báo. Sau khi thị trường đóng cửa ngày hôm qua, Tổng thống Trump đã gia hạn thỏa thuận đình chiến thương mại với Trung Quốc thêm 90 ngày, tạo thêm thời gian đàm phán. Tuy nhiên, cho đến khi đạt được thỏa thuận thương mại Mỹ–Trung, Trung Quốc sẽ chỉ mua lượng đậu tương Mỹ đủ để bù đắp nhu cầu trước vụ thu hoạch mới của Brazil vào đầu năm sau. Khoảng thời gian này đang dần thu hẹp lại.

Ngô

USDA đã hạ dự báo tồn kho ngô Hoa Kỳ cuối vụ 2024/25 thêm 35 triệu giạ, xuống còn 1,305 tỷ giạ, giảm nhẹ so với kỳ vọng. Xuất khẩu niên vụ 2024/25 được nâng thêm 70 triệu giạ, lên 2,820 tỷ giạ. Lượng sử dụng cho sản xuất ethanol giảm 30 triệu giạ và các mục đích FSI khác giảm 5 triệu giạ.

Diện tích thu hoạch năm 2025 được điều chỉnh tăng gần 2 triệu mẫu, lên 88,69 triệu mẫu, trong khi năng suất bình quân của Mỹ tăng 7,8 giạ/mẫu, đạt kỷ lục 188,8 giạ/mẫu. Sản lượng tăng gần 1 tỷ giạ, đạt kỷ lục 16,742 tỷ giạ, cao hơn khoảng 750 triệu giạ so với dự báo trước đó. Đây là mức tăng sản lượng và năng suất lớn nhất từng được ghi nhận trong báo cáo tháng 8, vượt kỷ lục trước vào năm 2016 khi sản lượng tăng 613 triệu giạ và năng suất bình quân tăng 7,1 giạ/mẫu.

Nhu cầu niên vụ mới 2025/26 tăng 545 triệu giạ, lên gần 16 tỷ giạ. Tồn kho cuối kỳ của Mỹ tăng lên 2,117 tỷ giạ, nếu được xác nhận sẽ là mức cao nhất trong 7 năm và cao hơn 215 triệu giạ so với kỳ vọng. Tỷ lệ tồn kho/sử dụng đạt 13,3%, mức cao nhất trong 6 năm. Tuy nhiên, các con số nhu cầu lạc quan này sẽ cần được kiểm chứng trong suốt niên vụ. Giá bán trung bình tại nông trại của Mỹ cho niên vụ 2025/26 giảm 0,30 USD/giạ, xuống còn 3,90 USD.

Tồn kho toàn cầu tăng 10,5 triệu tấn, lên 282,5 triệu tấn, chủ yếu nhờ lượng tồn kho Mỹ cao hơn; các yếu tố cung cầu toàn cầu khác hầu như không thay đổi. Brazil gây bất ngờ khi sản lượng 2024/25 được giữ nguyên ở mức 132 triệu tấn. Tồn kho đậu tương của Trung Quốc niên vụ 2024/25 giảm 1 triệu tấn do nhập khẩu thấp hơn.